Thứ Tư, 11 tháng 7, 2018

Thơ Ivan Bunin - Phần 2


8. MAHÔMÉT VÀ SAPHIA*

Saphia thức dậy lấy bàn tay của mình
Nàng khéo léo bện những mớ tóc đen:
“Mọi người chửi em là người Do Thái” –
Nàng nói trong nước mắt với chồng mình.

Mahômét cười, âu yếm nhìn vợ ông
Rồi trả lời: “Em hãy nói với họ
Abraham là bố, Môsê là chú
Còn Mahômét là chồng em”.
1914
_________________
*Saphia – tức Safiyya bint Huyayy (610 – 670) là vợ của nhà tiên tri Mahômét, người sáng lập Hồi giáo.

Магомет и Сафия

Сафия, проснувшись, заплетает ловкой
Голубой рукою пряди чёрных кос:
«Все меня ругают, Магомет, жидовкой», —
Говорит сквозь слёзы, не стирая слёз.

Магомет, с усмешкой и любовью глядя,
Отвечает кротко: «Ты скажи им, друг:
Авраам  — отец мой, Моисей  — мой дядя,
Магомет  — супруг».
1914

  

9. LĂNG MỘ SAPHIA*

Mạch nước nguồn trên những dãy sườn non
Vẫn mơ màng theo bờ khe chảy xuống
Như tu sĩ, trên quan tài màu trắng
Giữa trời xanh cây bách đứng lặng ngừng.

Như cô gái, hoa mimosa dịu dàng
Đang thả xuống những bóng cành bóng lá
Những bông hồng đ mùi hương lan tỏa
Trong bụi cây họa mi khóc nỉ non.

Phía dưới là bờ hoang dã trong sương
Đường chân trời xa vời trong tầm mắt
Bầu không khí bao la và bát ngát
Eo biển Hellespont** xanh một màu xanh.

Bình yên cho em, tươi trẻ, khiêm nhường!
Tôi hôn lên lăng mộ em màu trắng
Năm thế kỷ bất tử, không quên lãng
Cả Phương Đông vẫn tưởng nhớ về em.

Hạnh phúc cho người quyến rũ trần gian
Nhưng trăm lần hạnh phúc hơn thế nữa
Tro tàn đặt lòng tin vào bất tử
Và trở nên huyền thoại suốt vĩnh hằng!
1903
__________________
*Như đã chú thích ở bài Mahômét và Saphia thì Saphia là vợ của Mahômét và tình yêu này cũng có thể coi là huyền thoại. Trong trận Khaybar, cha và chồng của Saphia bị giết còn Saphia cũng như các thành viên khác trong bộ lạc của cô bị bắt làm tù binh. Nhìn thấy Saphia vô cùng xinh đẹp bị giam giữ, nhà tiên tri Mahômét đã đưa cô đến ở cùng các bà vợ của mình và giải thoát cô khỏi chế độ nô lệ. Sau khi giải thoát, cô được lựa chọn để bảo lưu tôn giáo của mình và ra đi nơi nào cô muốn, hoặc là ở lại với Mahômét. Saphia quyết định ở lại và sống với ông. Thời điểm kết hôn với Mahômét, Saphia tròn 17 tuổi.
**Hellespont (tên gọi ngày nay là Dardanellia) – là một eo biển hẹp ở tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ kết nối biển Aegea với biển Marmara.


Гробница Сафии

Горный ключ по скатам и оврагам,
Полусонный, убегает вниз.
Как чернец, над белым саркофагом
В синем небе замер кипарис.

Нежные, как девушки, мимозы
Льют над ним узор своих ветвей,
И цветут, благоухают розы
На кустах, где плачет соловей.

Ниже - дикий берег и туманный,
Еле уловимый горизонт:
Там простор воздушный и безгранный,
Голубая бездна - Геллеспонт.

Мир тебе, о юная! Смиренно
Я целую белое тюрбэ:
Пять веков бессмертна и нетленна
На Востоке память о тебе.

Счастлив тот, кто жизнью мир пленяет.
Но стократ счастливей тот, чей прах
Веру в жизнь бессмертную вселяет
И цветёт легендами в веках!
1903



10. ĐÊM MẦU NHIỆM*

Thiên thần đêm này từ trời xuống
(Kinh Koran)

Đêm mầu nhiệm. Những đỉnh cao kết vào nhau hạ xuống
Những chiếc khăn đóng hướng lên cao tận trời xanh.
Ông Muezzin hát lên. Những tảng băng vẫn ửng hồng
Nhưng cơn lạnh của bóng đêm đang thở ra từ thung lũng.

Đêm mầu nhiệm. Từ trên những sườn núi tối tăm
Mây vẫn còn buông và dường như đang vây lấy.
Ông Muezzin** hát lên. Trước ngôi trời Vĩ đại
Đã tỏa khói và đang chảy. Dòng sông Kim Cương.

Thiên thần Gabriel – không nghe thấy và vô hình
Qua thế giới ngủ yên. Cầu Chúa ban phước thiện
Con đường vô hình của người hành hương thần thánh
Xin cho mặt đất của người tình yêu với hòa bình.
1903
_____________________
*Đêm mầu nhiệm hoặc đêm tiền định – tức Laylat al-Qadr (tiếng Anh), là đêm 26 sang ngày 27 của tháng Ramadan mà theo truyền thuyết thì trong cái đêm linh thiêng này thiên thần Gabriel đã mang Koran từ trời xuống trần gian cho Ma-hô-mét.
**Ông Muezzin – giáo sĩ Hồi giáo, người từ tháp canh gọi tín đồ cầu nguyện.

Ночь Аль-Кадра

В эту ночь ангелы сходят с неба
(Коран)

Ночь Аль-Кадра. Сошлись, слились вершины,
И выше к небесам воздвиглись их чалмы.
Пел муэззин. Еще алеют льдины,
Но из теснин, с долин уж дышит холод тьмы.

Ночь Аль-Кадра. По темным горным склонам
Еще спускаются, слоятся облака.
Пел муэззин. Перед Великим Троном
Уже течет, дымись. Алмазная Река.

И Гавриил - неслышно и незримо –
Обходит спящий мир. Господь, благослови
Незримый путь святого пилигрима
И дай земле твоей ночь мира и любви!



11. MAHÔMÉT TRONG CẢNH LƯU ĐÀY

Có những linh hồn bay trên sa mạc
Trên mương đá, trong những buổi hoàng hôn.
Có những lời vang lên rất đau xót
Như mạch nguồn bị Thượng Đế lãng quên.

Đôi chân trần và ngực Ngài mở rộng
Ngài ngồi lên trên cát nói rất buồn:
Ta đi ra vùng sa mạc mênh mông
Xa tất cả những người ta yêu mến!”

Những linh hồn nói rằng: “Không đáng giá
Làm nhà tiên tri mệt mỏi, yếu hèn”.
Ngài trả lời rất lặng lẽ và buồn
Rằng: “Ta đã từng than phiền với đá”.
1906

Магомет в изгнании

Духи над пустыней пролетали
В сумерки, над каменистым логом.
Скорбные слова его звучали,
Как источник, позабытый богом.

На песке, босой, с раскрытой грудью,
Он сидел и говорил, тоскуя:
«Предан я пустыне и безлюдью,
Отрешен от всех, кого люблю я!»

И сказали Духи: «Недостойно
Быть пророку слабым и усталым».
И пророк печально и спокойно
Отвечал: «Я жаловался скалам».


12. ĐÔI CÁNH TRẮNG

Giữa sa mạc, trên đầu nhà tiên tri
Thiên thần Gabriel vẫn đang bay lượn
Và vầng hào quang của đôi cánh trắng
Làm dịu đi cơn nóng của đường xa.

Tôi trên đường, tôi ở nơi hiu quạnh.
Cũng như Ngài, tôi không dám nghỉ ngơi
Như Ma hô mét về Medina thần thánh
Giữ con đường về mục đích tuyệt vời.

Nhưng cái nóng không thiêu đốt – lời Ngài
Tôi vẫn mang theo bên mình mọi lúc:
Bằng thứ ánh sáng dịu dàng, màu bạc
Tràn ngập cuộc đời trước mặt tôi đây.
1903

Белые крылья

В пустыне красной над пророком
Летел архангел Гавриил
И жгучий зной в пути далеком
Смягчал сияньем белых крыл.

И я в пути, и я в пустыне.
И я, не смея отдохнуть,
Как Магомет к святой Медине,
Держу к заветной цели путь.

Но зной не жжет - твоим приветом
Я и доныне осенен:
Мир серебристым, нежным светом
Передо мною напоен.



13. HẬU DUỆ CỦA NHÀ TIÊN TRI

Bao vương quốc, xứ sở chốn trần gian.
Ta yêu thảm được làm từ cây sậy
Ta không đi vào quán, mà thánh đường
Có những sân đầy nắng và lặng lẽ.

Ta không phải nhà buôn. Ta không mừng
Trước vũ hội hóa trang đầy bụi bặm
Trong vườn của Đa-mát kia thần thánh
Ta không cần bố thí của người Anh.

Ta chịu đựng. Nhưng mà chẳng áo quần
Chẳng mũ trắng ta đều chẳng muốn nhìn.
Điều răn: chớ làm cho người điều ác
Nhưng con mắt trước họ chớ nhìn lên.

Hãy nói lời chào, nhưng bạn trong màu xanh
Khi họ đến hãy nhìn vào cây bách
Đừng làm con tắc kè hoa liên tiếp
Đổi màu sắc khi lên xuống bức tường.
1912

Потомки пророка

Не мало царств, не мало стран на свете.
Мы любим тростниковые ковры,
Мы ходим не в кофейни, а в мечети,
На солнечные тихие дворы.

Мы не купцы с базара. Мы не рады,
Когда вступает пыльный караван
В святой Дамаск, в его сады, ограды;
Нам не нужны подачки англичан.

Мы терпим их. Но ни одежды белой,
Ни белых шлемов видеть не хотим.
Написано: чужому зла не делай,
Но и очей не подымай пред ним.

Скажи привет, но помни: ты в зеленом.
Когда придут, гляди на кипарис,
Гляди в лазурь. Не будь хамелеоном,
Что по стене мелькает вверх и вниз.



14. ALBORZ*

Trên băng tuyết dãy Alborz mặt trời thức dậy
Trên băng tuyết dãy Alborz chẳng có cuộc đời
Xung quanh khắp dãy núi, từ trên bầu trời
Một vòng kim cương của hành tinh tuôn chảy.

Màn sương mù bò trườn trên sườn dốc
Nhưng đến đỉnh không đ sức bò lên
Mà chỉ những vị thần của trời xanh
Có con đường đ đi về mặt đất.

Và Mitra**, tên của một vị thần
Mà khắp chốn trần gian đều cảm tạ
Ngài đầu tiên đi lên trong số họ
Bằng bình minh trên những cánh đồng băng.

Và bằng áo bào màu vàng tỏa sáng
Ngài nhìn khắp nơi từ phía trời xanh
Vào những dòng sông, đồi cát Iran
Và những núi đồi nhấp nhô gợn sóng.
1905
_______________
*Alborz (Alburz) – là một dãy núi miền bắc Iran.
**Mitra (Mithra) – thần mặt trời, thần của sự hoà thuận trong kinh Avesta.

Эльбурс

На льдах Эльбурса солнце всходит.
На льдах Эльбурса жизни нет.
Вокруг него на небосводе
Течет алмазный круг планет.

Туман, всползающий на скаты,
Вершин не в силах досягнуть:
Одним небесным Иазатам
К венцу земли доступен путь.

И Митра, чье святое имя
Благословляет вся земля,
Восходит первый между ними
Зарей на льдистые поля.

И светит ризой златотканой,
И озирает с высоты
Истоки рек, пески Ирана
И гор волнистые хребты.



15. CIRCE*

Nữ thần ngồi trên chiếc giá ba chân
Mái tóc của nàng có màu vàng hung
Đôi mắt xanh, sống mũi Hy Lạp cổ -
Tất cả đều hiện rõ trong gương.

Khoác trên mình mỏng mảnh chiếc khăn nhung
Gương mặt dịu dàng và nước da hồng
Giọt mật của hoa, giọt nước của thánh
Hoa tai lấp lánh, đôi má ửng hồng.

Uy-lít-xơ bảo nàng: “Nữ thần ơi!
Tất cả đều tuyệt đẹp: này bàn tay
Và này mái tóc nhẹ nhàng khẽ chạm
Và khuỷu tay và chiếc cổ đẹp này!”

Nữ thần cười: “Uy-lít-xơ chàng ơi!
Em chỉ thích đôi bờ vai này thôi
Và mái tóc màu vàng hung giữa
Chảy xuống phía sau theo sống lưng này!”
1916
_________________
*Circe (Xiếc-xi) – nữ thần trong thần thoại Hy Lạp.

Цирцея

На треножник богиня садится:
Бледно-рыжее золото кос,
Зелень глаз и аттический нос –
В медном зеркале все отразится.

Тонко бархатом риса покрыт
Нежный лик, розовато-телесный,
Каплей нектара, влагой небесной,
Блещут серьги, скользя вдоль ланит.

И Улисс говорит: «О, Цирцея!
Все прекрасно в тебе: и рука,
Что прически коснулась слегка,
И сияющий локоть, и шея!»

А богиня с улыбкой: «Улисс!
Я горжусь лишь плечами своими
Да пушком апельсинным меж ними,
По спине убегающим вниз!»


16. DI HUẤN CỦA SAADI

Hãy hào phóng như cây cọ. Mà nếu không thể, thì hãy làm
Thân một cây tùng, ngay thẳng, giản đơnvà cao thượng.
1913

Завет Саади

Будь щедрым, как пальма. А если не можешь, то будь
Стволом кипариса, прямым и простым - благородным.



17. HAGIA SOPHIA*

Những ngọn đèn cháy lên, không hiểu được
Lời vang lênlãnh tụ của đạo Hồi
Đọc Kinh Koran – và mái vòm bao la
Trong bóng đêm khó đăm đăm biến mất.

Nhấc thanh kiếm cong lên trước đám đông
Vị lãnh tụ nhắm mắt – và sợ hãi
Cảnh chết chóc quanh đám đông vây lấy
Một đàn bà trên thảm đã nằm yên…

Buổi sáng đền sáng sủa. Tất cả lặng im
Trong sự lặng yên thiêng liêng và khiêm nhượng
Còn mặt trời trên mái vòm lung linh tỏa sáng
Trong vẻ không thể nào hiểu được tự trời xanh.

Bồ câu trong đền kêu gù gù rồi bay lên
Và từ trời xanh, từ mỗi ô cửa sổ
Khoảng trời bao la, bầu không khí kia vẫy gọi
Cho bạn Tình yêu, và cho bạn Mùa xuân!
1903
_____________________
*Hagia Sophia ban đầu là một Vương cung thánh đường Chính thống giáo Đông phương, sau là thánh đường Hồi giáo, và nay là một viện bảo tàng ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Đặc biệt nổi tiếng vì vòm trần lớn, tòa nhà này được xem là hình ảnh mẫu mực của kiến trúc Byzantine. Đây từng là nhà thờ lớn nhất thế giới trong gần một ngàn năm, cho đến khi Nhà thờ chính tòa Sevilla hoàn thành vào năm 1520.

Айя-София

Светильники горели, непонятный
Звучал язык, - великий шейх читал
Святой Коран, - и купол необъятный
В угрюмом мраке пропадал.

Кривую саблю вскинув над толпою,
Шейх поднял лик, закрыл глаза - и страх
Царил в толпе, и мертвою, слепою
Она лежала на коврах...

А утром храм был светел. Все молчало
В смиренной и священной тишине,
И солнце ярко купол озаряло
В непостижимой вышине.

И голуби в нем, рея, ворковали,
И с вышины, из каждого окна,
Простор небес и воздух сладко звали
К тебе, Любовь, к тебе, Весна!


18. BÊN CỔNG VÀO SIN

Bên cổng vào Sin, trên khe Xết-rôn
Trên ngọn đồi, ngọn gió đang đốt cháy
Nơi có chiếc bóng tỏa từ bức tường
Tôi ngồi bên cạnh một người bệnh hủi
Người đang ngồi ăn những hạt kỳ nham.

Anh ta thở, mùi hôi không thể tả
Anh ta bị thuốc độc, hóa điên rồ
Mặc dù vậy, nụ cười trên môi
Nhìn xung quanh, ánh nhìn rất vui vẻ
Và thì thầm: “Đa tạ Thánh Ala!”

Lạy Chúa bao dung, tại vì sao Người
Cho chúng tôi đam mê, quan tâm, suy nghĩ
Khát khao công việc, vinh quang, giải trí?
Mà những thằng ngốc, người tàn tật lại mừng vui
Và người bệnh cùi vui vẻ hơn tất cả.
1917
_________________
*Sin là ngọn đồi phía tây thành phố Giê-ru-sa-lem; Xết-rôn là khe hoặc thung lũng và cũng Giê-su-sa-lem. Chúng tôi dùng tên phiên âm của Kinh Thánh tiếng Việt (2Samuen 15, 23; 1Các Vua 2, 37).

У ворот Сиона, над Кедроном

У ворот Сиона, над Кедроном,
На бугре, ветрами обожженном,
Там, где тень бывает от стены,
Сел я как-то рядом с прокаженным,
Евшим зерна спелой белены.

Он дышал невыразимым смрадом,
Он, безумный, отравлялся ядом,
А меж тем, с улыбкой на губах,
Поводил кругом блаженным взглядом,
Бормоча: «Благословен аллах!»

Боже милосердный, для чего ты
Дал нам страсти, думы и заботы,
Жажду дела, славы и утех?
Радостны калеки, идиоты,
Прокаженный радостнее всех.



19. NGƯỜI MỚI TU

Dân ca Gruzia

“Người anh em, u ám trong trai phòng!
Tuyết trắng tinh rắc đầy trong hẻm núi.
Nhưng trên tảng băng, trên sườn dốc thoải
Tôi nhìn ra một bông tuyết màu xanh”.

“Này anh em, người mê sảng gì chăng!
Nơi rừng núi nghèo nàn và u ám
Tu viện chúng tôi nằm nơi cao lắm
Và còn rất lâu mới tới mùa xuân”.

“Đừng sợ gì, người anh em mến thương!
Sắp tới đây không còn cơn mê sảng –
Và cơn bão tuyết trong đêm sẽ đến
Mang theo mình một bông tuyết màu xanh!”
1905

Послушник

Грузинская песня

«Брат, как пасмурно в келье!
Белый снег лежит в ущелье.
Но на скате, на льдине,
Видел я подснежник синий».

«Брат, ты бредишь, ты бледен!
Горный край суров и беден.
Монастырь наш высоко.
До весны еще далеко».

«Не пугайся, брат милый!
Скоро смолкнет бред унылый –
К ночи вьюга пустыни
Занесет подснежник синий!»
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét