45. TÔI BƯỚC ĐI THẤY NHỎ BÉ VÔ CÙNG
Tôi bước đi, thấy nhỏ bé vô cùng
Tôi tự mình cảm thấy rằng như vậy
Khi vách đá, dãy núi từ xa ngái
Cùng với tôi đang lớn và cao lên.
Nhưng khi đã lên đến điểm tận cùng
Thì tôi cao hơn độ cao của chúng
Tôi một mình trên đỉnh cao hoang vắng
Cảm thấy rằng mệt mỏi lắm trời xanh.
Và mặt đất nằm ở dưới chân mình
Với vẻ lớn lao vô cùng kinh ngạc
Nâng tôi lên, vào một tồn tại khác
Và niềm vui tràn ngập cả cõi lòng.
Nhưng nỗi sợ hãi vực thẳm vẫn còn
Nỗi sợ hãi đến từ nơi xa ngái…
Có phải tại vì mình tôi đơn lẻ
Đã ghé nhìn vào gương mặt trời xanh?
1901
Пока я шел, я был так мал
Пока я шел, я был так мал!
Я сам себе таким казался,
Когда хребет далеких скал
Со мною рос и возвышался.
Но на предельной их черте
Я перерос их восхожденье.
Один, в пустынной высоте,
Я чую высших сил томленье.
Земля - подножие мое.
Ее громада поднимает
Меня в иное бытие,
И душу радость обнимает.
Но бездны страх - он не исчез,
Он набегает издалека...
Не потому ль, что одиноко
Я заглянул в лицо небес?
46. DÒNG CHỮ TRÊN CHIẾC CHÉN CỔ
Người đàn ông tìm ra chiếc chén bên bờ biển xanh
Trong một ngôi mộ cổ nằm ở bên bờ cát trắng.
Ông đã làm việc lâu, rất lâu chắp nối chúng
Mà ngôi mộ đã giữ suốt ba nghìn năm như một ngôi đền
Và người đàn ông đọc được trên chiếc chén:
“Muôn thuở chỉ có bầu trời và biển lớn mênh mông
Muôn thuở chỉ mặt trời, mặt đất cùng sắc đẹp của mình
Muôn thuở chỉ những gì vẫn vô hình kết nối
Tâm hồn và trái tim người sống cùng hồn của mộ tối tăm”.
1903
Надпись на чаше
Древнюю чашу нашел он у шумного синего моря,
В древней могиле, на диком песчаном прибрежье.
Долго трудился он; долго слагал воедино
То, что гробница хранила три тысячи лет, как святыню,
И прочитал он на чаше
Древнюю повесть безмолвных могил и гробниц:
«Вечно лишь море, безбрежное море и небо,
Вечно лишь солнце, земля и ее красота,
Вечно лишь то, что связует незримою связью
Душу и сердце живых с темной душою могил».
47. ĐÊM ĐANG ĐẾN
Đêm đang đến – dần đen
Phương đông xanh và xám…
Từ váy áo của đêm
Trên đồng cơn gió thoảng.
Ngày dài và oi nóng
Đêm đến và hát lên
Bài hát ru dịu dàng
Gọi về nơi tĩnh lặng.
Mắt đêm buồn, tối tăm
Con đường đêm đơn lẻ
Con tim ta hãy ngủ!
Hãy nghỉ… và lãng
quên.
1893
Ночь идет - и темнеет
Ночь идет - и темнеет
Бледно-синий восток...
От одежд ее веет
По полям ветерок.
День был долог и зноен...
Ночь идет и поет
Колыбельную песню
И к покою зовет.
Грустен взор ее темный,
Одинок ее путь...
Спи-усни, мое сердце!
Отдохни... Позабудь.
48. BẦU TRỜI XÁM TRÊN ĐẦU TÔI LƠ LỬNG
Bầu trời xám trên đầu tôi lơ lửng
Và khu rừng mở rộng, vẻ trần truồng
Còn phía dưới, bên những con đường thẳng
Trên chiếc lá chanh bùn chuyển màu đen.
Từ phía trên có tiếng động lạnh lùng
Còn phía dưới – sự lặng im héo úa…
Thời tuổi trẻ của tôi – đời viễn xứ
Là niềm vui của ý nghĩ cô đơn!
1889
Седое небо надо мной
Седое небо надо мной
И лес раскрытый, обнаженный.
Внизу, вдоль просеки лесной,
Чернеет грязь в листве лимонной.
Вверху идет холодный шум,
Внизу молчанье увяданья…
Вся молодость моя — скитанья
Да радость одиноких дум!
49. CÂU CHUYỆN CỔ
Tôi mơ như trong chuyện cổ, chúng mình
Cùng bước đi trên những bờ hoang vắng
Trên vịnh biển hoang dã có màu xanh
Trong rừng thông, giữa những đồi cát trắng.
Đó là một buổi trưa hè đầy nắng
Ngày nóng bức và ánh sáng khắp nơi
Rừng là mặt trời và từ mặt trời
Một niềm vui tràn đầy đang tỏa sáng.
Những hoa văn tạo nên từ những bóng
Đã nằm lên trên cát nóng màu hồng
Vùng chân trời hãy tỏa trên rừng thông
Một niềm vui thanh
cao và trong sáng.
Đã đùa chơi ánh hào
quang của biển
Trên ngọn thông cao
vút, rồi chảy theo
Vỏ của cây rất cứng
và rất khô
Nhựa của thông trong
suốt còn hơn kính…
Tôi đã mơ về biển bắc
xa xôi
Những khu rừng ở
những vùng hoang dã
Mơ về khoảng xa, mơ
câu chuyện cổ
Và mơ về thời tuổi
trẻ của tôi.
1903
Сказка
…И снилось мне, что мы, как в сказке,
Шли вдоль пустынных берегов
Над диким синим лукоморьем,
В глухом бору, среди песков.
Был летний светозарный полдень,
Был жаркий день, и озарен
Веет, лес был солнцем, и от солнца
Веселым блеском напоен.
Узорами ложились тени
На теплый розовый песок,
И сипни небосклон над бором
Был чист и радостно-высок.
Играл зеркальный отблеск моря
В вершинах сосен, и текла
Вдоль по коре, сухой и жесткой,
Смола, прозрачнее стекла…
Мне снилось северное море,
Лесов пустынные края…
Мне снилась даль, мне снилась сказка –
Мне снилась молодость моя.
50. ĐÊM VÀ NGÀY
Tôi đọc cuốn sách cũ trong suốt những đêm dài
Dưới ánh sáng ngọn đèn run rẩy, cô đơn và lặng lẽ:
‘Tất cả qua mau – những bài ca, niềm vui, nỗi buồn cũng thế
Chỉ có Chúa là muôn thuở. Trong cái đêm lặng lẽ của Ngài”.
Buổi bình minh tôi nhìn thấy bầu trời bên ô cửa sổ
Mặt trời mọc lên, những ngọn đồi gọi đến thiên thanh:
“Hãy bỏ lại cuốn sách cũ trên bàn đến buổi hoàng hôn
Những con chim đang hát về niềm vui muôn đời của Chúa!”
1901
Ночь и день
Старую книгу читаю я в долгие ночи
При одиноком и тихо дрожащем огне:
«Все мимолетно - и скорби, и радость, и песни,
Вечен лишь бог. Он в ночной неземной тишине».
Ясное небо я вижу в окно на рассвете.
Солнце восходит, и горы к лазури зовут:
«Старую книгу оставь на столе до заката.
Птицы о радости вечного бога поют!»
51. CÔ ĐƠN
Và ngọn gió, cơn mưa nhỏ và sương
Nước ở trên vùng đất hoang lạnh lẽo.
Ở đây đời chết lặng đến mùa xuân
Đến mùa xuân những khu vườn trơ trụi.
Anh ở nhà một mình. Thấy tối tăm
Sau giá vẽ, gió thổi vào cửa sổ.
Ngày hôm qua em đã ở cùng anh
Nhưng bên anh mà em vẫn u buồn.
Trong buổi tối ngày xấu trời khi đó
Anh cứ ngỡ em đã là vợ mình…
Thôi vĩnh biệt! Đành chịu đến mùa xuân
Anh sẽ sống một mình – không có vợ…
Ngày hôm nay dường như không kết thúc
Nhưng đám mây đen giăng dãy, giăng hàng
Dấu vết em dưới cơn mưa, bên thềm
Đã nhòa đi, khi trên thềm đầy nước
Anh đau đớn đưa mắt nhìn một mình
Vào bóng tối trước buổi chiều xám xịt.
Anh muốn kêu, muốn gọi với theo sau:
“Anh van em, xin em
hãy quay về!”
Nhưng với đàn bà
không còn quá khứ
Đã hết yêu – là trở
thành xa lạ.
Biết sao giờ! Uống
rượu và đốt lò…
Thật là hay mua cho
mình con chó.
1903
Одиночество
И ветер, и дождик, и мгла
Над холодной пустыней воды.
Здесь жизнь до весны умерла,
До весны опустели сады.
Я на даче один. Мне темно
За мольбертом, и дует в окно.
Вчера ты была у меня,
Но тебе уж тоскливо со мной.
Под вечер ненастного дня
Ты мне стала казаться женой...
Что ж, прощай! Как-нибудь до весны
Проживу и один - без жены...
Сегодня идут без конца
Те же тучи - гряда за грядой.
Твой след под дождем у крыльца
Расплылся, налился водой.
И мне больно глядеть одному
В предвечернюю серую тьму.
Мне крикнуть хотелось вослед:
«Воротись, я сроднился с тобой!»
Но для женщины прошлого нет:
Разлюбила - и стал ей чужой.
Что ж! Камин затоплю, буду пить...
Хорошо бы собаку купить.
52. TẠI VÌ SAO NGƯƠI BUỒN BÃ, TRỜI CHIỀU
Tại vì sao ngươi buồn bã, trời chiều?
Có phải vì ta thương cho mặt đất
Vì biển rộng xanh lên trong mù mịt
Và mặt trời đang dần khuất từ xa?
Tại vì sao ngươi đẹp thế, trời chiều?
Có phải vì quá xa xôi mặt đất
Với nỗi buồn biệt ly hoàng hôn tắt
Trên cánh buồm nghiêng của những con tàu
Vì những con sóng ban
chiều lặng lẽ
Đang ca vang những
bài hát của mình
Con tim cô đơn và ý
nghĩ buồn
Giữa không gian vô
cùng trên biển cả?
1897
Отчего ты печально, вечернее небо?
Отчего ты печально, вечернее небо?
Оттого ли, что жаль мне земли,
Что туманно синеет безбрежное море
И скрывается солнце вдали?
Отчего ты прекрасно, вечернее небо?
Оттого ль, что далеко земля,
Что с прощальною грустью закат угасает
На косых парусах корабля
И шумят тихим шумом вечерние волны
И баюкают песней своей
Одинокое сердце и грустные думы
В беспредельном просторе морей?
53. CHIM HOÀNG YẾN
Ở nhà nó có màu xanh…
(Bram)
Người ta mang chim hoàng yến
Về từ bên kia đại dương
Đau khổ, chim trở nên vàng
Ở trong lồng con chật cứng.
Không trở thành chim quí hiếm
Dù chim vẫn cứ hát về
Hòn đảo xa xôi diệu kỳ
Cho đám đông ngồi trong quán!
1921
Канарейка
На родине она
зеленая...
(Брэм)
Канарейку из-за
моря
Привезли, и вот
она
Золотая стала с
горя,
Тесной клеткой
пленена.
Птицей вольной, изумрудной
Уж не будешь —
как ни пой
Про далекий
остров чудный
Над трактирною
толпой!
54. TÔI BƯỚC RA KHỎI NHÀ LÚC NỬA ĐÊM
Tôi bước ra khỏi nhà lúc nửa đêm
Những bước chân gõ đều trên đất cứng
Những ngôi sao bao phủ khu vườn đen
Còn trên mái nhà – cọng rơm màu trắng:
Những đám tang lúc nửa đêm đang nằm.
1888
В полночь выхожу
один из дома
В полночь выхожу
один из дома,
Мерзло по земле
шаги стучат,
Звездами осыпан
черный сад
И на крышах -
белая солома:
Трауры полночные
лежат.
55. LỜI
Lăng mộ, cốt xương, xác ướp đều câm nín cả
Cuộc sống chỉ ban cho lời:
Từ bóng tối cổ xưa, trên nghĩa trang
nơi trần thế
Chỉ vang lên những dòng chữ viết mà
thôi.
Và ta không còn tài sản nào khác trên
đời!
Hãy học biết cách để gìn giữ nó
Theo sức mình, trong ngày giận dữ hay
đau khổ -
Món quà bất tử của ta – đấy là LỜI.
1915
Слово
Молчат гробницы,
мумии и кости,—
Лишь слову жизнь
дана:
Из древней тьмы,
на мировом погосте,
Звучат лишь
Письмена.
И нет у нас иного
достоянья!
Умейте же беречь
Хоть в меру сил,
в дни злобы и страданья,
Наш дар
бессмертный — речь.
56. TRONG NGÔI NHÀ HOANG VẮNG CỦA KHU VƯỜN
Trong ngôi nhà hoang vắng của khu vườn
Tôi bước đi, tiếng lá khô xào xạc:
Có một niềm vui vô cùng kỳ quặc
Tôi đang giẫm lên quá khứ bằng chân!
Tất cả trước đây ngọt ngào vô cùng
Ít quí trọng và ít khi nhớ đến!
Thật là buồn đau – trong niềm hy vọng
Hãy còn biết thêm được một mùa xuân!
1917
В пустом,
сквозном чертоге сада
В пустом,
сквозном чертоге сада
Иду, шумя сухой
листвой:
Какая странная
отрада
Былое попирать
ногой!
Какая сладость
все, что прежде
Ценил так мало,
вспоминать!
Какая боль и
грусть - в надежде
Еще одну весну
узнать!
57. RỪNG TIẾP RỪNG. CÒN NGÀY DẦN TỐI ĐEN
Rừng tiếp rừng. Còn ngày dần tối đen
Những dải thấp màu xanh, còn hoa lá
Nhuốm đầy sương, trắng xóa trên đồng cỏ…
Cú xám kia đã chợt tỉnh giấc nồng.
Hướng về tây, một hàng những cây thông
Trong có vẻ như đoàn người bảo vệ
Còn mặt trời như chim trong chuyện cổ
Đang cháy lên trong rừng rậm trăm năm.
1899
Все лес и лес. А
день темнеет
Все лес и лес. А
день темнеет;
Низы синеют, и
трава
Седой росой в
лугах белеет...
Проснулась серая
сова.
На запад сосны
вереницей
Идут, как рать
сторожевых,
И солнце мутное
Жар-Птицей
Горит в их дебрях
вековых.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét